Xã hội

Dự báo thiên tai lệ thuộc... quan trắc thủ công

07/10/2020, 11:06

Tỷ lệ trạm quan trắc thủ công tại Việt Nam lớn dẫn tới phát sinh nhiều sai sót trong công tác dự báo thiên tai.

img
Thiếu trạm quan trắc tự động, chất lượng dự báo thiên tai giảm độ chính xác

Thiếu trạm quan trắc tự động

Theo Viện Khoa học khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu, hiện Việt Nam có khoảng trên 600 trạm quan trắc về khí tượng, thủy văn, hải văn kể cả trạm radar, thám không vô tuyến và khoảng gần 1.000 trạm đo mưa.

Nhận định về con số này, TS. Đỗ Huy Dương, Trung tâm Quan trắc khí tượng thủy văn cho rằng, mức độ tự động hóa trên toàn mạng lưới quan trắc ở Việt Nam là 40%, chưa đạt mục tiêu của Chính phủ là 80%.

Cụ thể, ông Dương dẫn giải: Đài khí tượng Tây Bắc chỉ có 4 thiết bị tự động, đồng bằng Bắc bộ có 7. Cả hai khu vực chỉ có 9 thiết bị đo nhiệt độ không khí tự động. Trong 9 đài khí tượng thì 7 đài chưa có thiết bị đo thời gian nắng. Đài Nam bộ là đơn vị duy nhất trên cả nước được trang bị 4 thiết bị đo sóng trong quan trắc hải văn.

“Đài Khí tượng thủy văn Tây Bắc có mức độ tự động hóa chỉ hơn 28%. Khi mưa lũ, đường sá chia cắt, sóng di động mất liên lạc, kết quả quan trắc không thể cập nhật về đài. Việc lắp đặt hệ thống quan trắc tự động ở đây cũng gặp khó, do cần đường điện, đường truyền mạng… trong khi đây lại là những thứ còn thiếu thốn ở miền núi”, ông Dương nói.

So sánh với các nước, ông Dương dẫn chứng Nhật Bản có 1.300 trạm quan trắc thì 1.200 trạm tự động (92%), không có quan trắc viên. Khoảng cách phân bố trung bình của hệ thống trạm trên toàn quốc khoảng 17km. Các đài Hong Kong, Hàn Quốc đều có tỷ lệ tự động hóa lớn, số liệu được truyền về gần như liên tục nên công tác dự báo, cảnh báo sẽ sát với thực tế hơn.

Trong khi đó, tại Việt Nam, tỷ lệ trạm quan trắc thủ công lớn dẫn tới phụ thuộc nhiều vào năng lực của quan trắc viên, quá trình gửi mẫu và tính toán có thể phát sinh nhiều sai sót. “Không có hệ thống quan trắc tự động chúng ta vẫn đưa ra được dự báo, nhưng tỷ lệ chính xác không cao và thường chậm nhịp hơn khoảng một giờ chứ không thể cập nhật liên tục theo thời gian thực”, ông Dương nói.

Cản trở ứng dụng hiện đại trong dự báo

Được biết, Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu đã ứng dụng thành công trí tuệ nhân tạo (AI) trong công tác dự báo thiên tai và các hiện tượng thời tiết cực đoan.

Cụ thể, các thuật toán hồi quy phân tích, mạng thần kinh nhân tạo, công nghệ giao thoa khẩu độ tổng hợp (InSAR)… đã được sử dụng để xử lý số liệu bằng phân tích hình ảnh phục vụ công tác dự báo, nhận định các thiên tai, thời tiết cực đoan...

Với hệ thống mô hình số trị hiện đại, Việt Nam đã dự báo không khí lạnh, nắng nóng, khô hạn đạt yêu cầu của xã hội. Dự báo, cảnh báo lũ trên các sông khu vực miền Trung, Tây Nguyên trước 24 - 48 giờ, khu vực Bắc bộ trước 3 - 5 ngày.

“Trước năm 2000, thời hạn dự báo bão tại Việt Nam mới chỉ đạt từ 18 - 24 giờ. Tuy vậy, từ năm 2000 đến nay, dự báo khí tượng thủy văn đã được thực hiện theo hướng mô hình hóa với hệ thống mô hình dự báo hiện đại của thế giới đã được cải tiến, phát triển cho phù hợp với Việt Nam. Đặc biệt là các mô hình chuyên sâu trong dự báo bão, dự báo mưa lớn, dự báo lũ, cảnh báo lũ quét, dự báo sóng biển, nước dâng do bão hay gió. Nhờ các công nghệ dự báo này, dự báo bão tại Việt Nam đã được nâng thời hạn dự báo lên 5 ngày”, đại diện Viện Khoa học Khí tượng cho biết.

Tuy nhiên, để phát triển và ứng dụng AI hiệu quả, đưa ra được các dự báo chính xác nhất, đòi hỏi phải có một mẫu hiệu chỉnh đủ lớn và thời gian đủ dài để học được các quy luật và các xu thế của thời tiết trong quá khứ. Trong khi đó, hoạt động quan trắc và số liệu quan trắc khí tượng thủy văn tại Việt Nam còn tương đối hạn chế.

Để nâng cao tỷ lệ tự động hóa, theo ông Mai Văn Khiêm, Giám đốc Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, ngoài nguồn vốn từ Nhà nước cần huy động các nguồn lực xã hội. Nhiều ngành nghề, tỉnh thành có nhu cầu sử dụng thông tin thời tiết, họ có thể xây dựng các trạm quan trắc của mình.

“Cơ quan chuyên môn của Nhà nước cần kết nối các hệ thống này và thu thập dữ liệu. Cách này giảm tải áp lực cho ngân sách và nhanh chóng mở rộng mạng lưới quan trắc”, ông Khiêm nói.

Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu đang tập trung xây dựng siêu dữ liệu, ứng dụng mạng thần kinh nhân tạo phù hợp trên hệ thống HPC nhằm dự báo quỹ đạo và cường độ bão trên Biển Đông trên cơ sở dữ liệu quan trắc, viễn thám, dữ liệu quá khứ và kết quả dự báo từ các nguồn khác nhau nhằm đưa ra được kết quả dự báo bão tốt nhất, đồng thời tăng cường đào tạo nguồn nhân lực nhằm vận hành, quản lý, sử dụng hiệu quả các thành tựu của trí tuệ nhân tạo cho ngành khí tượng thủy văn.

Bạn cần đăng nhập để thực hiện chức năng này!

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.