Quản lý

Mô hình "khoán xe chui": Thành công từ những lần “mở tuyến”

11/06/2016, 08:02

Qua câu chuyện của nguyên Thứ trưởng Bùi Văn Sướng, chúng tôi đã tìm gặp tác giả mô hình “khoán xe chui” ngày ấy...

anh 3 lien doan lao dong
Giám đốc Hoàng Chính Hòa (thứ hai, từ phải sang) báo cáo hiệu quả từ mô hình “khoán xe” với Đoàn công tác Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (năm 1991)

Qua câu chuyện của nguyên Thứ trưởng Bùi Văn Sướng, chúng tôi đã tìm gặp tác giả mô hình “khoán xe chui” ngày ấy - Cựu chiến binh Hoàng Chính Hòa. Năm nay, ông Hòa đã ngoại lục tuần, tóc bạc trắng, song phong thái vẫn nhanh nhẹn, tháo vát cùng vẻ hào sảng, tự tin như ngày nào.

Sao hồi đó mình liều thế?!

Khi biết chúng tôi muốn tìm hiểu về “một thời cầm lái” của ông ở Xí nghiệp Xe khách Hải Hưng, ông cười bảo: “Có gì đâu, cũng giống như khoán hộ thôi. Khoán xe thì trên đường, khoán hộ thì dưới ruộng. Nói vậy chứ cái gì cũng có phức tạp riêng, hồi đó mình mạnh tay làm, nhưng bây giờ nghĩ lại mới thấy sợ, nhiều lúc tôi tự hỏi: Sao hồi đó mình… liều thế?!”.

Ngoài mô hình “khoán xe chui”, ông Hòa còn nhắc tới một kỷ niệm khó quên khác. Ngày ấy, không ít người ngạc nhiên khi thấy trên tỉnh lộ 38, 39 thường xuyên xuất hiện các xe khách kéo theo những chiếc moóc lăn bánh “xòng xọc” trên những cung đường ổ trâu, ổ gà, trên moóc chở theo lượng người đông không kém lượng người ngồi trên xe khách. Thì ra, đó chính là sáng kiến tăng ghế ngồi của Xí nghiệp Xe khách Hải Hưng. Trong bối cảnh các doanh nghiệp vận tải gặp nhiều khó khăn do cấm vận dẫn tới việc thiếu phương tiện, thiếu thiết bị thay thế… “cái khó” đã “ló cái khôn”, với quyết tâm cao, Hoàng Chính Hòa cùng Ban giám đốc xí nghiệp nghiên cứu, chuyển các xe khách quá hư hỏng sang dùng làm toa kéo moóc, tận dụng “xe kéo xe” để nâng số ghế, tiết kiệm xăng, dầu chạy các tuyến huyện. Ngoài ra, ông còn đề nghị Cục Cơ khí cho phép xe chạy ga-rô-ren (xe chạy bằng than củi) để khắc phục những khó khăn về nhiên liệu.

Do đường sá thời đó vô cùng xuống cấp, đa số là đường đá, đường đất nên lốp, nhíp xe bị hư hỏng nhiều, Hoàng Chính Hòa lại cùng cán bộ, nhân viên xí nghiệp nghiên cứu, đắp lại lốp và uốn nhíp tại xưởng để khắc phục tình trạng thiếu vật tư, thiết bị.

Nhằm giải quyết khó khăn trong việc đi lại cho nhân dân, nhất là trong dịp Tết với lưu lượng hành khách tăng cao, năm nào Xí nghiệp Xe khách Hải Hưng cũng quyết tâm phấn đấu vận chuyển hết khách trước lúc Giao thừa, không để một hành khách nào phải ăn Tết tại bến xe. Dịp Tết Bính Dần 1986, Giám đốc Hoàng Chính Hòa đã được Bộ trưởng Bộ GTVT gửi điện khen vì trong đêm Giao thừa, ông đã tự tay lái chuyến xe khách cuối cùng đưa đồng bào kịp về quê đón Tết trước lúc Giao thừa.

Liều lĩnh đề xuất mở tuyến vào Tây Nguyên

Giữa lúc ngành Vận tải đang gặp khó khăn, ông lại đưa ra một quyết định liều lĩnh, để rồi sau đó tự ghi tên mình vào một lĩnh vực “đầu tiên” khác. Năm 1988, Xí nghiệp Xe khách Hải Hưng là doanh nghiệp vận tải đầu tiên trong nước mở tuyến vận tải hành khách đi Gia Lai - Kon Tum - Đắk Lắk để phục vụ việc đi lại cho gần 30.000 người dân Hải Hưng đang đi xây dựng vùng kinh tế mới.

Nhớ lại thời kỳ ấy, ông Hòa bảo rằng, việc mở tuyến vào Tây Nguyên là vấn đề lớn, ông đã làm văn bản đề nghị Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hải Hưng xin ý kiến Bộ GTVT, song đây là lĩnh vực quan trọng, trong khi hệ thống văn bản Nhà nước chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, Bộ GTVT không dám “quyết” mà phải xin ý kiến chỉ đạo trực tiếp của Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt. Trước quyết tâm táo bạo của vị giám đốc trẻ, tháng 11/1988, đồng chí Võ Văn Kiệt đã ghi vào văn bản gửi Bộ GTVT: “Đồng ý cho làm thử, Nhà nước không bù lỗ”. Đồng chí Võ Văn Kiệt còn cho gọi Hoàng Chính Hòa tới và dặn: “Mở hai tuyến đường này, cậu phải trực tiếp chỉ đạo anh em làm cho tốt, nếu xảy ra tai nạn, cậu sẽ bị mất chức, kể cả ngồi tù đấy!”.

Ông Hòa vẫn nhớ, hôm mở tuyến vào Tây Nguyên, lãnh đạo hai tỉnh: Đắk Lắk và Gia Lai - Kon Tum ra tận bến xe đón và tặng hoa chúc mừng. 15 năm kể từ ngày rời chiến trường, chuyến trở lại Trường Sơn năm ấy, Hoàng Chính Hòa đã không nén nổi xúc động bởi ông đã có hơn 6 năm là chiến sĩ lái xe thuộc Tiểu đoàn 52, Trung đoàn 11, Bộ Tư lệnh Đoàn 559. Trở lại chiến trường xưa khi đã có nhiều năm dấn thân vào chốn thương trường, ông đã cảm tác thành những vần thơ in trong tập Một thời cầm lái của mình: “Mười lăm năm rồi tim tôi ấp ủ/ Có hôm nay trở lại Trường Sơn/ Con đường đây độ dốc trước cao hơn/ Xe ì ạch rú ga càng thấy nhọc/ Còn hôm nay xe tôi chạy bốc/ Đường thuận êm, quãng dốc hạ độ cao…”.

Hai tuyến đường sau đó đã đi vào hoạt động hiệu quả và trở thành hình mẫu vận tải hành khách để phát triển các tuyến đường bộ trong cả nước. “Bây giờ nghĩ lại, tôi mới thấy mình liều, bởi khi đó, phương tiện vận tải hành khách của xí nghiệp chỉ là xe tải IFA đóng (Xí nghiệp mua xe tải IFA rồi đóng thành xe khách) nên kỹ thuật, tốc độ xe vô cùng hạn chế, đường sá vào các tỉnh phía Nam rất xấu, thời tiết thì khắc nghiệt, xe lại không có điều hòa, máy lạnh như bây giờ”, ông Hòa nhớ lại.

Theo ông, ngày ấy, xí nghiệp còn thêm một cái khó nữa, đó là các dịch vụ cung cấp xăng, dầu, sửa chữa, ăn nghỉ dọc tuyến đường đều phải tự cung, tự cấp, nhiều nơi “đồng không mông quạnh” thường xuyên xảy ra tình trạng cướp giật, có thời điểm trên đường 14, 19 phỉ vẫn hoạt động, lái xe phải trang bị súng để tự vệ. Trong hành trình 4-5 ngày đêm, những chuyến xe chở khoảng 35-40 hành khách phải vượt qua hàng trăm cây cầu, bến phà và các đèo cao, suối sâu nguy hiểm, nếu lái xe thiếu cẩn trọng hoặc xe bị trục trặc, mất an toàn sẽ gây hậu quả nghiêm trọng. Do đó, trên mỗi xe đều có hai lái xe, một phụ xe và một số thợ sửa chữa cùng hai lốp dự phòng. Xe lúc nào cũng phải dự trữ 3 phuy dầu, mỗi phuy chứa khoảng 200 lít. “Ngày đó, hành khách ngồi lâu, chân bị xuống máu, sưng vù, nhưng ai nấy đều rất vui khi kết thúc hành trình tiện lợi, an toàn từ vùng kinh tế mới về quê và ngược lại”, ông Hòa cho biết.

Và mở tuyến vận tải quốc tế đầu tiên

“Thừa thắng xông lên”, năm 1990, nhận thấy nhu cầu của bà con Hải Hưng đang làm ăn, buôn bán tại tỉnh kết nghĩa Viêng Chăn cũng như nhu cầu đi lại của các lưu học sinh Lào theo học tại các trường trung cấp y, dược tại Hải Hưng, ông Hòa lại đề xuất để cấp trên cho phép mở tuyến vận tải hành khách đi Viêng Chăn và tuyến Hải Hưng - Viêng Chăn trở thành một trong những tuyến vận tải hành khách quốc tế sớm nhất cả nước (theo xác nhận từ Văn bản số 500/QHQT ngày 24/10/1990 của Bộ GTVT).

Qua gặp gỡ, tìm hiểu, chúng tôi không khỏi khâm phục về những kỷ lục “đầu tiên” cùng những cái “sớm nhất” mà người lính Trường Sơn Hoàng Chính Hòa đóng góp cho ngành Vận tải trong những năm đổi mới. Biết chuyện, ông Hòa liền cười bảo: “Thực ra, tôi cũng không để ý đến những thành tích ấy, mãi sau này, khi anh em đồng nghiệp ở Hải Dương kể lại tôi mới biết những mô hình thành công của xí nghiệp đã được ghi nhận trong lịch sử giai đoạn 1945-2015 của ngành”.

Ông Hòa còn nhắc tới một lần “mở lối” khác của doanh nghiệp mình, đó là năm 1998, khi Chính phủ có chủ trương đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các đơn vị vận tải, Hoàng Chính Hòa lại tiếp tục đưa Xí nghiệp Xe khách Hải Hưng trở thành đơn vị cổ phần hóa điểm của tỉnh Hải Dương với việc cổ phần hóa 100%, không có vốn chi phối của Nhà nước. Sau thời điểm ấy, Công ty CP Ô tô vận tải hành khách Hải Hưng trở thành đơn vị đầu tiên ở miền Bắc mở tuyến xe buýt liên tỉnh và sau gần 20 năm thực hiện cổ phần hóa, công ty vẫn đang hoạt động, kinh doanh rất hiệu quả.

Khi được hỏi: “Vì sao sau khi tách tỉnh năm 1997 mà doanh nghiệp của ông vẫn mang tên gọi gắn với địa danh Hải Hưng?”, ông Hòa bộc bạch, quê nội ông ở Khoái Châu, Hưng Yên; Quê ngoại ở Cẩm Giàng, Hải Dương. Vì vậy, với nguyện vọng gắn bó với cả hai vùng quê mà ông đã đề nghị sau khi cổ phần hóa, vẫn cho giữ nguyên tên doanh nghiệp gắn với địa danh cũ. “Chúng tôi đề nghị sau khi chia tách, doanh nghiệp của mình vẫn hoạt động trên địa bàn hai tỉnh vừa tái lập, nghĩa là đổi mới doanh nghiệp nhưng vẫn hoạt động theo địa giới cũ”, ông Hòa cho biết.

Trước lúc chia tay, tôi hỏi thêm về cuộc sống riêng tư của ông, về những năm tháng trong quân ngũ cầm lái ngang dọc Trường Sơn. Ông bảo, khí chất ngang tàng của ông có lẽ bị “nhiễm” từ những năm tháng xẻ dọc Trường Sơn ấy, để rồi từ khi rời chiến trường, lao vào thương trường, vẫn còn vẹn nguyên trong ông sự táo bạo, kiên gan trước mọi khó khăn, thử thách.

Ngoài ra, như ông bảo, có lẽ tính cách của ông phần nào được thừa hưởng từ hai cụ thân sinh, hai bậc lão thành cách mạng, nhất là từ thân mẫu của ông, cụ Trần Thị Dự, nguyên Cán sự Huyện đội Kim Động (tỉnh Hưng Yên), người chỉ huy nữ du kích Hoàng Ngân vừa được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân…

Ít ai biết, trong thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, tác giả của mô hình “khoán xe”, vị giám đốc “tuổi băm” ngày ấy đã được Bộ GTVT hiệp thương giới thiệu tham gia ứng cử Đại biểu Quốc hội và tham gia Tỉnh ủy Hải Hưng Khóa VI. Giờ đây, về nghỉ hưu sau hàng chục năm công tác, với nụ cười lạc quan cùng giọng nói hào sảng, ông luôn thấy thanh thản, tự hào về “một thời cầm lái”, về những năm tháng “mở lối”, góp phần giúp ngành Vận tải thoát khỏi cơ chế bao cấp và có những bước tiến dài trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Bạn cần đăng nhập để thực hiện chức năng này!

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.