Hồ sơ tài liệu

Một cuộc chiến tranh thần kỳ (kỳ 2)

09/05/2014, 07:00

Trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, trận Leningrad là cuộc phòng thủ dài ngày nhất của quân đội Liên Xô, là trận đánh có số dân thường thiệt mạng cao nhất trong toàn bộ chiến tranh.

Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại 1941-1945 của nhân dân Liên Xô là cuộc chiến tranh chính nghĩa vì độc lập tự do của Tổ quốc Liên Xô XHCN, là bộ phận quyết định và quan trọng nhất của chiến tranh thế giới thứ II (1939-1945). Dù thời gian qua đi, dù đã diễn ra những biến động lớn trong nền chính trị thế giới và Liên bang Xô viết không còn nữa, nhưng những chiến công bất diệt của nhân dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh này sẽ mãi mãi sống trong kí ức nhân loại. Đúng như những lời trong một bài hát được phổ biến rộng rãi trong suốt những năm chiến tranh cũng như đến tận hôm nay: “… Hãy đứng lên, đất nước vĩ đại. Đứng lên trong trận chiến sống còn. Đứng lên trong cuộc chiến tranh nhân dân. Một cuộc chiến tranh thần kỳ…”.

Kỳ 2: Phá vỡ phong tỏa Leningrad: “Con đường sống” và “Con đường chiến thắng”

Leningrad, nay là St Petersburg, từng là thủ đô nước Nga trong suốt 200 năm. Với những chiếc cầu bắc qua dòng Neva sáng chiều sóng vỗ, Cung điện Mùa Đông, Bảo tàng Hermitage, Thánh đường Admiralty và Tượng đồng Piotr Đại đế; với Vườn Mùa hè cùng những địa danh gắn liền với tên tuổi Pushkin, Gogol, Dostoievsky, Blok và Anna Akhmatova…, đây là một trong những thành phố đẹp nhất và một trung tâm văn hóa quan trọng nhất trên thế giới. Leningrad cũng là nơi khởi đầu 2 cuộc Cách mạng Tháng Hai và Tháng Mười năm 1917.

Hồng quân phòng thủ Leningrad
Hồng quân phòng thủ Leningrad

Trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, trận Leningrad là cuộc phòng thủ dài ngày nhất của quân đội Liên Xô, là trận đánh có số dân thường thiệt mạng cao nhất trong toàn bộ chiến tranh. Từ khi bị quân đội Đức bao vây (tháng 9/1941) cho đến khi được quân đội Liên Xô giải phóng (ngày 27/1/1943), gần 900 ngày đêm, người dân thành phố bị phong tỏa phải trải qua những thử thách vô cùng khốc liệt. Trong thời gian này, phát xít Đức đã bắn gần 150.000 quả đạn pháo, ném hơn 100.000 quả bom cháy và 4.600 quả bom phá xuống thành phố. Người dân thành phố sống trong cảnh đói rét, tiêu chuẩn bánh mì tối thiểu cho mỗi người trong mùa đông lạnh chỉ còn 125gam. Nguồn năng lượng duy nhất là các loại củi, hầu như tất cả các loại cây đã bị đốn bỏ để lấy củi. Do thiếu năng lượng, nhiều nhà máy phải đóng cửa và tất cả các hoạt động vận chuyển công cộng đều không thực hiện được. Hệ thống cấp nước của thành phố bị bom và đạn pháo phá hủy. Nguồn nước sử dụng chủ yếu lấy từ sông Neva dưới làn đạn súng đại liên của quân Đức ở bên kia bờ sông quét sang.

Số người chết vì đói, rét và bom đạn trong thời gian này lên tới khoảng 800.000 người. Nhưng đói rét và bom đạn không khuất phục được quân dân thành phố anh hùng này, những người đã dũng cảm chống lại vòng vây phong tỏa của kẻ thù và lập nên một chiến công vô song trong lịch sử nhân loại.

Cuộc tấn công và phong tỏa kéo dài của quân đội Đức Quốc xã đã không thể bóp chết được Leningrad. Hơn nửa triệu người dân đã được huy động xây dựng hệ thống phòng thủ quanh thành phố, gồm 190km rào chắn bằng gỗ, 630km hàng rào thép, 700km hào chống tăng, 5000 công sự bằng gỗ và bê tông, hơn 25.000km hào, hàng nghìn hỏa điểm kiên cố bằng bê tông và ụ súng bằng gỗ đắp đất. Nhiều ngôi nhà bằng đá được kết cấu lại thành những pháo đài nhỏ. Mặc dù thiếu hụt nghiêm trọng nguyên liệu, nhiên liệu nhưng các nhà máy tại Leningrad vẫn sản xuất được xe tăng, đại bác, súng cối, súng máy, tiểu liên, súng trường, các loại đạn dược.

Đặc biệt, trong những ngày bị phong toả, hồ Ladoga trở thành “Con đường sống” của thành phố Leningrad. Khi mặt băng trên hồ trở nên rắn chắc, hậu phương đã tổ chức vận chuyển cho Leningrad súng đạn, lương thực, thực phẩm, thuốc men và nhiên liệu, và khi quay về, chở theo thương binh, những người ốm, phụ nữ, người già và trẻ em. Tuy các đoàn xe ô tô chạy với tải trọng không lớn do phải chạy trên mặt băng và phải đối mặt với những trận không kích thường xuyên của không quân Đức, nhưng “con đường sống” đã giảm bớt nhiều khó khăn cho thành phố, đồng thời đưa được 1,7 triệu/3,1 triệu người dân Leningrad sơ tán về phía đông, trong đó có 414.000 trẻ em.  

Đầu tháng 6/1942, thành phố đã nhận được những tấn dầu hỏa đầu tiên qua một đường ống dài 25 km đặt ngầm dưới đáy hồ Ladoga. Cuối tháng 7 năm 1942, nguồn điện của nhà máy thủy điện Volkhov vừa được khôi phục đã đến được với Leningrad qua một đường cáp điện cũng đặt ngầm dưới hồ. Các tuyến đường thủy được khôi phục ngay khi mặt hồ Ladoga tan băng và vận chuyển đến thành phố những nhu yếu phẩm cần thiết, trong đó, ưu tiên số một vẫn là lương thực, thực phẩm và than đá.

Đêm 18 rạng ngày 19/1/1943, sau khi hai mũi xung kích của hai cánh quân Hồng quân tham gia chiến dịch “Tia lửa” gặp nhau tại khu vực “chiếc cổ chai” Shlisselburg, vòng phong tỏa Leningrad bị chọc thủng. Ngay sau đó, Chính phủ Liên Xô đã quyết định xây dựng cấp bách một tuyến đường sắt dài 36 km. Mặc dù trong khu vực mới chiếm lại được vẫn còn đầy mìn, bom và đạn pháo chưa nổ; bất chấp thời tiết giá buốt dưới 0 độ với những trận tuyết rơi liên tiếp, chỉ sau 15 ngày, tuyến đường sắt này đã đi vào hoạt động. Ngày 11/2/1943, chuyến tàu chở bột mỳ, than đá, dầu, quặng kim loại, vũ khí đầu tiên đã đến được Leningrad. Người dân Leningrad gọi đây là “Con đường chiến thắng”. Cùng với “con đường sống”, “con đường chiến thắng” đã đi vào lịch sử như một biểu tượng của thành phố. Nó góp phần đẩy lùi những ngày sống trong đói rét của người dân Leningrad dù bom đạn vẫn chưa ngưng nổ trên các đường phố, đồng thời đánh dấu sự phá sản tiếp theo đối với các kế hoạch của quân đội Đức.

Ngày nay, trên con đường dốc Vaganovo dẫn đến hồ Ladoga, có một tượng đài gồm hai nửa vòm cuốn không khép kín, khoảng trống có chiều rộng bằng mặt đường ô tô, tượng trưng cho vòng phong tỏa mà người dân Leningrad đã phải chịu đựng gần 900 ngày đêm với bao hi sinh, tổn thất. Đây chính là chỗ mở đầu cho “con đường sống”, một con đường không có tiền lệ trong chiến tranh.

Nguyên Phong