Bà Trần Thị Hằng |
Nhưng giờ bà đã ở vị thế khác xa 20 năm trước, khi lần đầu tôi gặp. Từ chị Hằng “hủi”, nay đã là “Bà tỷ phú” của Thái Bình. Chỉ có điều sự khắc khổ vẫn còn in đậm trên khuôn mặt bà...
“Bụi đường nhòa phủ nhiều đau đớn”
“Nói chú đừng cười chứ đến bây giờ chị vẫn không nghĩ mình lại có ngày hôm nay”, bà Trần Thị Hằng (phường Hoàng Diệu, TP Thái Bình) vừa nói vừa rót cho tôi ly trà xanh nóng hổi. Chờ tôi uống xong, bà bảo: “Chú ra thăm nhà cửa, sân vườn để mừng cho chị đi”. Tôi theo bà ra “Nguyệt vọng lầu”. Ngồi trên lầu nhìn bao quát khu biệt thự của bà Hằng. Ngôi nhà chính 3 tầng khang trang, khu nhà ngang xây theo kiểu cổ, ở góc phía bên kia vườn là bể bơi gia đình.
Trời Thái Bình hôm ấy lất phất mưa, lạnh buốt. Câu chuyện buồn đẫm nước mắt về tình duyên của bà Hằng nghe càng thêm tê tái.
“Cách đây hơn 20 năm, anh ấy đưa vợ, 2 đứa con chung và 2 đứa con riêng của vợ anh ấy về nhà chị”, bà Hằng bắt đầu câu chuyện về người chồng của mình đã bỏ vợ con theo người đàn bà khác như vậy. Bà giận ông đến tím tái mặt mày, nhưng nhìn mấy đứa trẻ “bụng ỏng, đít beo” thì không cầm lòng được. Nuôi được một tuần thì mẹ, rồi chị gái chửi rủa bà không ra gì. “Chưa thấy ở đời có con đàn bà nào ngu dốt như mày”. Chị đành gửi lũ trẻ lại cho bố nó, nhưng hàng tuần vẫn gửi khi thì thóc gạo, khi tiền bạc để chăm lo thêm cho các con của người chồng bội bạc.
Trời đã về trưa, bà Hằng đưa tôi trở lại “Nguyệt vọng lầu”. Nhìn người đàn bà nhỏ thó, đi liêu xiêu phía trước tôi bất chợt nghĩ rằng, sức chịu đựng của con người quả thật khủng khiếp, sự vươn lên cũng thật phi thường. Bà Hằng là điển hình của tuýp người biến “cái không thể thành có thể” và với bà cứ “có sức người sỏi đá cũng thành cơm”. |
Bà dùng hai lòng bàn tay nâng ly trà, nhấp một ngụm, thở dài: “Chị có phải loại gái “đầu đường xó chợ” đâu em”. Không thuộc loại “sắc nước hương trời”, nhưng cũng chả thua kém ai. Là học sinh giỏi văn miền Bắc, có lần được nhà thơ Tố Hữu tiếp, đối thơ với ông ấy và còn được khen hay”.
Năm 1967, ở tuổi 22, sau khi tốt nghiệp Đại học Tài chính - kế toán, bà Hằng được bổ sung cho đoàn cán bộ bí mật vào vùng giáp ranh Sài Gòn, Đồng Nai làm công tác thanh vận. Tuy nhiên, chỉ một năm sau đó, do chiến trường có nhiều thay đổi nên Trần Thị Hằng được điều trở ra Bắc, làm ở Ty Tài chính Hà Tây (Hà Nội bây giờ).
Tại đây, bà Hằng đã gặp, yêu và lấy ông Chiền. “Anh ấy đẹp trai, khéo ăn nói, nhưng mắc chứng đào hoa”, bà Hằng chia sẻ. Khi đang mang bầu đứa con đầu lòng (sau bị sảy thai do xuống hầm trú ẩn tránh máy bay Mỹ) thì ông Chiền “phải lòng” cô văn công ở Nghệ An. Chuyện vỡ lở, anh chồng cô văn công bắn ông Chiền xuyên bắp đùi và đòi kiện, đuổi ông Chiền khỏi quân ngũ. Bà biết chuyện, từ Hà Tây, bụng mang dạ chửa, vượt đèo, lội suối cả tuần mới vào tới Con Cuông (nơi ông Chiền đóng quân) để “dàn xếp”. Rất may, ông Chiền tuy bị kỷ luật, nhưng không phải xuất ngũ về quê.
Chêm thêm nước sôi vào ấm trà, bà Hằng rót ra 2 ly. Bà đưa ly trà lên nhấp một ngụm, ngồi tư lự, mắt như đang nhìn vào khoảng không vô định. Bất chợt bà thở dài, rồi khe khẽ đọc: “Mỏi gối chồn chân ta lại về/ Hương xưa dấu cũ có là mê/ Bụi đường nhòa phủ nhiều đau đớn/ Sương gió thăng trầm lắm ủ ê...”. Bà nói rất thích mấy câu trong bài “Vọng nguyệt lầu” của một tác giả mà bà không nhớ tên.
Bà Hằng bên ngôi biệt thự mới |
“Có sức người, sỏi đá cũng thành cơm…”
Sau một tuần trà, bà Hằng bảo: “Chú ra đây chị chỉ cho chú cái này”. Tôi đi theo bà. “Đấy, ngôi nhà lần đầu tiên chị xây. Chị vẫn giữ như một kỷ niệm”- bà Hằng chỉ vào ngôi nhà. Ngôi nhà cũ giờ đây đứng nép mình ở một góc nhỏ của khu vườn, rêu phong đã phủ. Thời gian làm nó cũ kỹ và trở nên lỗi thời, nhỏ bé so với cơ ngơi đồ sộ bây giờ. Hơn 20 năm trước, lần đầu tiên gặp bà Hằng, tôi đã ngồi trong ngôi nhà này. Khi ấy, nó là một kỳ tích, là kết quả của những tháng ngày lăn lộn từ đáy của sự khốn cùng để vươn lên.
Đứng trước ngôi nhà cũ, câu chuyện như cổ tích về cuộc đời bà Hằng lại hiện về…
Cuối năm 1972, máy bay B52 của Mỹ đánh bom Hà Nội, Hà Tây. Bom rơi trúng Sở Tài chính, bà Hằng bị thương nặng, mất một mảng da đầu, thủng bụng, phải cắt gần 1m ruột bị nát. Giữ được tính mạng, nhưng sức khỏe của bà giảm sút nghiêm trọng. Không đủ sức khỏe phục vụ cách mạng, bà được cho xuất ngũ.
Với thân hình đầy thương tật, nặng chừng 35 kg, bà Hằng ôm con về quê chồng ở Bắc Ninh. Một thời gian sau, chồng bà cũng xuất ngũ. Cuộc sống khi ấy vô cùng khó khăn, thiếu thốn đủ bề. Không bỏ được thói trăng hoa, chồng bà bỏ đi. Gia đình, họ hàng nhà chồng lạnh nhạt, ruồng bỏ, bà đau đớn ôm con thơ trở về Thái Bình, nơi còn mẹ già và chị gái.
Không ngờ, về lại quê nhà cuộc sống của mẹ con bà còn bi đát hơn. Mẹ ở với chị gái, thương con, thương cháu, nhưng già cả, chả có của nả gì nên không giúp được. Bà ra góc vườn trống dựng tạm căn lều mái rạ lấy chốn nương thân. Những đêm mưa gió, lều dột tứ tung, mặc áo mưa, ôm con, nước mắt bà lăn dài.
Khóc mãi rồi cũng chả giải quyết được gì. Bà đưa con lên chợ Nam Định. Sáng sáng đi lấy hàng, không có tiền, bà đem cậu con trai 4 tuổi Tú Anh ra làm “tài sản thế chấp”, chiều về trả tiền hàng, “chuộc” lại con.
Có chút tiền, bà đưa con trở lại quê nhà. Bà quyết định biến ao tù của mẹ lâu nay bỏ hoang thành ao nuôi cá. Hàng ngày bà dầm mình dưới nước, móc bùn, đắp bờ. Sau một tháng cái ao đã “ra đời”, cá đã được thả. Tuy nhiên, cái giá phải trả vô cùng đắt. Ngâm nước lâu ngày, chân tay bị lở loét. Các ngón tay bà Hằng bắt đầu sưng tấy, đen dần và rụng từng đốt. Để tránh nhiễm trùng, bà đã nung đỏ lưỡi dao, dí vào cho cháy thịt và băng lại từng ngón tay. Mỗi lần như vậy, bà đau đớn và ngất xỉu. Sau một tuần bà đốt hết 10 ngón tay.
“Con mụ này bị hủi rồi. Cách ly nó đi không thì lây ra cả làng bây giờ”- dân làng bảo nhau thế. Sợ lây bệnh cho cả làng, dân quân tới nhà xích tay bà đưa lên bệnh viện tỉnh. Bác sĩ khám bảo: “Không phải hủi, bệnh nghẽn mạch vành”, nhưng dân làng chả mấy ai tin. Bà Hằng bảo: “Những tiếng xì xào, những cái nhìn tỏ vẻ ghê sợ, khinh bỉ của anh chị trong gia đình, dòng họ, rồi làng xóm như những chiếc kim châm vào tim gan tôi. Nó còn hơn cả nỗi đau thể xác”. Sức chịu đựng của bà rồi cũng đến giới hạn. Bà Hằng viết mấy chữ dặn mẹ già: “Con chết, mẹ gửi Tú Anh vào trại tế bần” và nửa đêm ra cầu Bo nhảy xuống sông tự tử. Nhưng số bà vẫn chưa tận. Một cụ già đi ngang qua, nhìn thấy đã khuyên can và cho bà 1.000 đồng. Số tiền ấy về mua được một tạ thóc.
Quay về nhà, mặc cho người làng khinh miệt, mặc cho miệng tiếng thị phi, bà tiếp tục sống, tiếp tục thả cá, nuôi lợn, nuôi gà. Quyết tâm cháy bỏng của bà là xây cho hai mẹ con một ngôi nhà để không còn phải chịu cảnh mưa, nắng. Thế là ngày ngày bà móc đất đóng gạch. Sau một năm bà cho ra lò một vạn tám gạch, đủ xây một ngôi nhà khang trang. Có nhà, bà tiếp tục nuôi lợn, nuôi gà, rồi ba ba. Từ một chuồng nuôi tạm bợ, bà đã dựng lên một hệ thống liên hoàn gồm 10 chuồng. Mỗi năm bà xuất chuồng đến cả chục tấn lợn. Có lúc, đàn lợn của bà lên đến 200 con. Mỗi lần bán lợn, gà bà đều mua vàng cất vào tủ. Khi con trai lớn thi đỗ đại học, bà mở tủ vàng được 25 cây….
Buổi sáng hôm ấy, bà Hằng đã nhắc lại rất nhiều những khó khăn, cơ cực mà bà đã phải trải qua, như lần ốm thập tử nhất sinh, bà bị đưa xuống nhà xác, nhưng rồi vẫn sống. Rồi lần hàng trăm con ba ba, hàng chục con lợn lăn ra chết vì có kẻ “ghen ăn tức ở” đã dã tâm đánh thuốc sâu. Rồi cái lần con trai mở công ty, sau hai năm thì phá sản và tiêu tốn của bà mấy trăm triệu đồng. Sau khi kể ra hàng loạt câu chuyện như vậy, bà Hằng bảo: “Chị thích nhất hai câu thơ của Hoàng Trung Thông: “Bàn tay ta làm nên tất cả/ Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”.
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận