Một sản phụ chia sẻ vè "sinh đẻ thuận tự nhiên" |
Philip Steer, giáo sư danh dự chuyên ngành phụ sản của trường Quốc học Imperial College London, người đã trợ giúp cho hơn 8.000 ca sinh nở và cố vấn cho Ủy ban Y tế Nicholas Winterton, khi tiến hành điều tra sâu về các dịch vụ chăm sóc thai sản vào năm 1992; ông nhấn mạnh: Dù không phải là người chống lại phong trào sinh đẻ tự tại nhà, nhưng ông thừa nhận cảm thấy thất vọng khi có những nhóm phụ nữ nói rằng hầu hết phụ nhữ nên sinh theo cách thuận tự nhiên.
Sự ra đời của một đứa trẻ không hề đơn giản như nhiều lời tuyên bố. Giáo sư Steer lập luận: “Trong hơn nửa triệu năm qua, xương chậu của phụ nữ đã nhỏ đi nhiều để thích ứng với dáng đi thẳng. Cùng với đó là trí tuệ phát triển, làm cho cái đầu trước kia bé thì nay to ra. Ở một số nước nghèo như châu Phi, sản phụ và thai nhi đã bị chết vì đầu thai tắc nghẽn khi phải sinh theo cách tự nhiên, ví dụ như ở Nigeria”.
Đồng ý rằng, mọi cặp vợ chồng đều có quyền quyết định việc sinh con ở đâu và cách sinh như thế nào. Nhưng rõ ràng, quyết định sinh con tại nhà là hoàn toàn liều lĩnh, gây ra sự chậm trễ với cơ hội được cứu sống khi xảy ra tai biến.
Giáo sư Steer khẳng định, những phụ nữ đẻ con tại nhà đã phát sinh rất nhiều tình huống bất ngờ so với sinh ở bệnh viện. Theo ông, khoảng một nửa phụ nữ ở Anh sẽ hoặc có phát triển một yếu tố nguy cơ tiềm ẩn, như tăng huyết áp, tiểu đường, vì thế sinh đẻ ở bệnh viện cần phải được khuyến khích. Trong 50% còn lại, thì sẽ có tới một nửa phát sinh vấn đề trong và sau quá trình chuyển dạ, ngay cả khi cuộc đẻ đã kết thúc tốt đẹp, thì sau đó vẫn phải vận chyển cấp cứu đến bệnh viện Đó là một quyết định hoàn toàn liều lĩnh, gây ra sự chậm trễ cho cơ hội được cứu sống khi xảy ra tai biến.
Năm 2003, mẫu giấy khai sinh của Mỹ đã được điều chỉnh, theo đó giấy khai sinh phải ghi nơi sinh và người đỡ đẻ. Điều đó giúp cho Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh CDC tiến hành nghiên cứu, so sánh tỉ lệ trẻ tử vong khi sinh tại nhà và tại bệnh viện.
Số liệu được CDC thu tập từ năm 2008 đến năm 2012, được công bố vào năm 2013; theo đó tỉ lệ trẻ sơ sinh tử vong do các bà đỡ tại nhà gấp 3,5 lần so với đẻ tại bệnh viện. Riêng tiểu bang Oregon, số liệu thống kê năm 2012 cho thấy tỉ lệ tử vong sinh tại nhà tăng cao đột biến gấp 8 lần.
Tháng 2 năm 2014, Tạp chí Sản Phụ khoa Hoa Kỳ đã công bố một nghiên cứu với 10.453.778 trường hợp bà mẹ sinh con tại Mỹ, phát hiện ra rằng trẻ sinh tại nhà có tỉ lệ tử vong cao gấp 4 lần sinh ở bệnh viện.
Hiệp hội Phụ nữ Tự do của Bắc Mỹ thực hiện nghiên cứu độc lập, kết quả cho thấy trẻ sinh ở nhà chết gấp 5,5 lần so với số trẻ sơ sinh chết tại bệnh viện.
Còn có nhiều những biến chứng khác với trẻ sinh tại nhà mà các nghiên cứu đã chỉ ra:
- Afgar 0 điểm trong 5 phút gấp 10 lần, thiếu oxy gây thiếu máu não cục bộ tăng gấp 17 lần- Mắc chứng động kinh tăng gấp 3 lần.
Dựa trên hàng loạt những nghiên cứu uy tín, mùa hè năm 2010, tạp chí The Lancet đăng tải một bài xã luận vang dội khắp thế giới, cung cấp những bằng chứng mạnh mẽ về việc sinh con tại nhà có hại cho trẻ sơ sinh. Bài báo một lần nữa khẳng định: “Phụ nữ có quyền lựa chọn cách thức sinh con và chọn nơi sinh con, nhưng họ không có quyền đặt đứa con của họ vào nơi báo trước sự nguy hiểm”.
Hầu hết các chuyên gia y khoa đều cho rằng sinh tại nhà là nguy hiểm và vô trách nhiệm. Một số người cho rằng hành động đó là liều lĩnh, mà bản chất của nó là ngược đãi trẻ em. Sự can thiệp của y học hiện đại là cần thiết, nó an toàn cho các bà mẹ nhất là những người có nguy cơ, thời gian phục hồi ngắn, giảm tỉ lệ xuất huyết, khắc phục tình trạng rách tử cung âm đạo, giảm nhiễm trùng.
Tuy nhiên, vẫn có những ý kiến phản đối từ chính cộng đồng y khoa. Ví dụ như bà Annie Francis, một nữ hộ sinh độc lập, bà cho rằng bức tranh tổng thể là đáng xấu hổ, đang có một “âm mưu toàn cầu chống lại phụ nữ sinh tại nhà”. Cộng đồng nữ hộ sinh cũng có những phản ứng, như bà Cathy Warwick, Tổng Thư kí của Đại học Nữ hộ sinh Hoàng gia Anh, đã tố cáo những nghiên cứu được công bố là “thiếu sót”, đó là “những cố gắng có chủ ý nhằm phá hoại sinh đẻ tự nhiên”.
Ở Mỹ cũng vậy. Một số nhà chính trị cao cấp của thành phố New York, trong đó có Scott Stringer là Chủ tịch Hội đồng Quản trị Manhattan. Ông nói: “Mỗi năm có khoảng 600 phụ nữ ở thành phố này sinh con, trong số đó có những phụ nữ muốn sinh con ở nhà, việc lấy đi quyền lựa chọn của họ thật là điều đáng xấu hổ”.
Năm 1992, một cuộc khảo sát của Ủy ban Thai sản phát hiện rằng, có tới 72% phụ nữ muốn tìm một nơi sinh đẻ khác thay cho bệnh viện. Trong số đó, có 44% quan tâm đến việc sinh đẻ tại nhà.
Sau khi đưa ra các nghiên cứu khoa học ở các nước tiên tiến liên quan về vấn đề sinh con thuận tự nhiên kể trên, bác sĩ BS. Trần Văn Phúc kết luận lại: "Tôi cho rằng sinh con tại nhà trong hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam là không phù hợp. Điều đó không nên được khuyến khích, thậm chí có thể áp dụng những chế tài cấm hỗ trợ sinh sản, giống như Hungaria đang làm, để tránh những tai biến đáng tiếc xảy ra, đặc biệt là tính mạng của bà mẹ và trẻ sơ sinh".
"Sau câu chuyện của bà mẹ Hưng Yên tự đỡ đẻ tại nhà, tôi hi vọng mỗi bà mẹ sẽ có kiến thức để thực hiện quyền lựa chọn nơi sinh và cách thức sinh con. Nhưng điều tôi muốn cảnh báo, rằng cho đến khi nền văn hóa của chúng ta học được cách đối mặt với cái chết một cách chủ động, thì ở thời điểm hiện tại cách sinh ấy không giúp chúng ta nắm lấy được cuộc sống" bác sĩ Phúc nói thêm.
Và cuối cùng, bác sĩ Phúc nhấn mạnh bằng kết luận của CDC: “Sinh đẻ với một bà mụ tại nhà đã giết chết những đứa trẻ sơ sinh. Đã đến lúc những người Mỹ ủng hộ sinh đẻ theo phương pháp tự nhiên phải ngừng nói về sự an toàn và phải bắt đầu làm một điều gì đó để giảm bớt số ca tử vong có thể tránh được".
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận