Đêm lũ mưa - Ảnh minh họa |
Chả mấy chốc nước lên đến nửa tầng một nhà tiểu đoàn bộ. Lúc này, những người dân chạy lụt đã lên hết tầng hai. Họ đứng ngồi ở cầu thang, trong phòng làm việc và tràn ra cả hành lang. Thỉnh thoảng, tôi lại thấy một con trâu bơi nhấp nhô, một con chó lóp ngóp trên mặt nước hoặc một vài con gà chết nổi, trôi trên làn nước đục. Chốc chốc lại một cái mủng con của dân táp vô, một cái bè chuối chở vài người ướt sũng, mặt tái mét về đồn.
Phá Tam Giang mênh mông, ngờm ngợp. Ôi trời ơi! Thương em anh chẳng dám vô. Sợ chuông nhà Hồ sợ phá Tam Giang. Khi bình thường, phá Tam Giang đã là nỗi lo sợ, ám ảnh rồi. Còn khi lũ lụt thì sự lo sợ kinh hoàng còn gấp biết bao lần. Câu ca xưa cũ ấy thoáng trong đầu làm tôi rờn rợn. Chốc chốc lại một cái mủng con của dân táp vô, một cái bè chuối chở vài người ướt sũng, mặt tái mét áp vào doanh trại. Ở chỗ chiếu nghỉ cầu thang, lính nuôi quân đang lúi húi nấu cơm cho mấy trăm con người tránh lũ lụt. Củi khô và than trôi hết nên lính ta phải dỡ dát giường và bàn ghế cũ làm chất đốt. Lũ lụt kéo dài thêm vài ngày nữa, gạo dự trữ hết thì không biết lấy gì mà ăn.
Ca nô, xuồng cao tốc của tiểu đoàn đã đi các hướng lũ to nhất chống lụt. Tôi đành phải mượn cái mủng cũ của người dân mới táp vào trú nhờ. Tôi bơi theo con đường rải đá mạt liên huyện. Con đường mà mọi ngày ô tô qua lại bụi mù trời thì lúc này xuồng cao tốc có thể xé nước lao trên đó được. Thôi rồi, mủng ơi. Nước xoáy mạnh quá, một chóp mái nhà tôn thò cả rui mè ra lao vào đâm thủng luôn cái mủng của tôi. Cái mủng chao nghiêng dạt ngay vào bụi tre bên đường. Không bơi được nữa, một tay tôi bịt lỗ thủng, một tay tát nước. Cũng không ổn, tôi phải xé luôn cái áo lót vo lại nhét vào lỗ thủng, nhưng nước vẫn dò vào. Tôi hốt hoảng, hai tay lóng ngóng như người sắp chết rét. Còn mắt thì cố ngóng ra chung quanh cầu cứu.
Một cái mủng. Thật rồi! Một cái mủng đang bơi ngang qua chỗ tôi. Người đàn ông vừa gạt nước mưa ở mặt vừa chèo.
- Giúp tôi vớ... với. - Tôi la to.
Người đàn ông ấy vẫn im lặng, ghì gẫm bơi mủng. Tiếng tôi la chìm vào gió mưa, dường như chẳng có nghĩa lý gì với anh ta. Tôi lại gào muốn đứt họng:
- Tôi bị kẹt ở đâ... đây. Mủng của tôi bị thu...ủng.
Lần này thì người đàn ông đứng dậy ghìm chèo. Anh ta gầy, cao lênh khênh. Dưới chân anh ta là một buồng chuối xanh và mấy con gà chết. Cái mủng đã dừng lại. Anh ta cố ghìm bai chèo cho mủng khỏi trôi. Tôi mừng quá gọi anh ta đến lạc cả giọng. Nhưng anh ta ngập ngừng nửa muốn đến chỗ tôi, nửa lại muốn bơi đi.
- Còn nhiều người cũng bị kẹt như anh. Tui vớt sao hết được. Anh thông cảm cho tui.
- Anh ta nói, giọng rất lạnh lùng, rồi bơi mủng đi.
- Đừng... giúp tôi. Tôi đi cấp cứu người. - Tôi rướn cổ to lên. - “Cứu một người phúc đẳng hà sa”. Anh biết khô... không?
Người đàn ông gầy, cao lênh khênh đứng trên mủng, chắp tay xá, miệng cứ kêu: “Xin xá tội. Đừng oán tui...”. Rồi anh ta bơi mủng đi. Cái mủng con và anh ta cứ khuất dần, nhoè dần vào những chóp nhà và lùm cây phập phều trong nước đục. Tôi bất lực và thất vọng, nước mắt ứa ra, hoà lẫn nước mưa lăn xuống miệng mằn mặn.
Mưa rơi.
Mưa cứ rơi cheo chéo như vãi hạt xuống mặt nước mang mang, rờn rợn. Dòng nước lũ dường như xoáy mạnh hơn làm bụi tre nghiêng ngả dưới nước đục. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình hoảng sợ, trơ trọi, cô đơn đến như vậy. Một mình tôi, một túi cứu thương, một cái mủng rò nước trong lúc cuối chiều lũ mưa hoang vắng. Tôi nghĩ đến lúc cái mủng cứ chìm dần, chìm dần. Tôi sẽ bấu, bám vào một hai cây tre đang cong mình dưới nước. Và lạy trời lũ ác đừng cuốn cả bụi tre đi. Bất chợt tôi nhớ đến con, đến vợ. Năm nay mưa dữ. Lũ từ núi cao, đồi trọc, tràn qua nhà tôi trước. Vợ con tôi bị lũ lụt trước cả tôi. Vợ tôi bán hàng ở chợ xép. Con sáu tuổi một buổi đi học, một buổi khóa cửa nhốt ở nhà. Vợ tôi có kịp chạy về nhà đưa con lên sân thượng không? Một vài anh em ở tiểu đoàn bộ cũng hoàn cảnh như tôi. Biết vậy mà không thể lội lũ mưa về với vợ con được. Ở dưới cửa sông này dân đang cần chúng tôi hơn. Thôi đành đi cứu người, lại có người khác đi cứu vợ con của mình. Vậy mà tôi bị kẹt lại đây. Tôi có làm sao thì uổng quá. Vợ con tôi có làm sao thì... Tôi rùng mình, không dám nghĩ tiếp nữa. Thôi, cầu trời cho hai mẹ con được bình yên. Tôi mong chờ đồng đội tôi đến. Dù biết số phận đang rất mong manh.
Cái mủng chìm dần rồi nghỉm. Túi quân y đựng thuốc khoác chéo ngực, tôi kịp bám vào bụi tre. Những cây tre cong mình nghiêng ngả chống chọi với lũ mưa. Gai tre chọc, khể vào tay, vào người tôi chảy máu. Tôi giật mình co tay lại thì chạm phải cái dây leo loằng ngoằng. Ôi! Không phải dây leo mà một con rắn. Không phải một con rắn mà tám, chín con đang quấn trên ngọn tre, tay tre. Một búi rắn, con to con nhỏ. Một con quấn nửa mình phía đuôi vào thân tre, còn nửa mình phía đầu thì nguềnh ngoàng với đến chỗ tôi. Hai mắt nó mở thao láo nhìn, lưỡi đen chẻ hai nhánh thia lia. Gió thổi mạnh, bụi tre dạt sang bên này, đổ về bên kia. Có cảm giác chỉ cách một đốt tay là đầu con rắn chạm vào mặt tôi. Nhưng, chúng không lao sang, không trườn đến chỗ tôi để cắn. Có lẽ chúng bị mưa lũ đập cho mệt mỏi, rã rời rồi, không đủ sức đuổi cắn kẻ đã chiếm chỗ. Cũng có thể, chúng thấy tôi không đáng sợ và tôi cũng đang nguy khốn, đang rất đáng thương như chúng nên cho đến nương nhờ. Tôi có vẻ yên tâm.
Trong màn mưa trắng mờ, lại thêm cái mủng to đang trôi về phía tôi. Mừng quá, tôi phấp phỏng hy vọng. Không thấy người trên đó, có lẽ nào mủng trống không? Mừng ơi là mừng! Chết đuối với được cọc rồi. Một cái mủng vô chủ trôi nổi đang đến gần. Mắt tôi nhòe nhoẹt nước mưa. Trời ơi! Tôi đã lóa mắt nhìn nhầm. Không phải cái mủng mà là một con trâu đen to kềnh chết nổi và một đàn vịt năm, sáu con đậu trên mình nó, chúng đang trôi ngang qua chỗ tôi. Con trâu chết thì đã hết kiếp rồi. Còn đàn vịt chưa chết nhưng lũ lụt cũng đã đập tơi bời, lấy mất hồn vía. Đàn vịt lặng im, vô cảm, không nhúc nhích, chẳng kêu. Sao lúc đó tôi thèm nghe một vài tiếng kêu cạc... cạc... của giống vịt. Tiếng vịt kêu sẽ làm cho lòng tôi bớt hoang vắng và sợ hãi. Tiếng vịt kêu sẽ báo cho tôi biết trong cơn đại hồng thủy này vẫn còn sự sống và hy vọng. Tịnh như không, chỉ có gió mưa gào và lũ lụt.
Cuộc đời hình như cũng không đến nỗi quá ưu ái với người này và bất công với kẻ khác. Ở quê tôi người ta thường nói: “Trời có mắt”, để chỉ việc người ở hiền gặp lành, kẻ ở ác thì gặp dữ, hay lúc khó khăn hoạn nạn sẽ có một lực lượng nào đó do con người hoặc trời đất trợ giúp. Tôi đã gào lên xuýt phát xỉu khi thấy cái xuồng cao tốc mầu đỏ của đơn vị đang thấp thoáng trong mưa trắng mù mịt từ xa...
- Trời ơi! Sao lại ở đây? - Đại úy tiểu đoàn phó kêu to.
Cái xuồng dừng lại hẳn, mấy cánh tay chìa ra thì tôi chẳng cần gì phải gồng mình gắng gượng nữa. Tôi mềm oặt người ngả hẳn vào vòng tay của đồng đội.
Đại úy hỏi tôi dồn dập, cơn cớ nào mà đến nông nỗi này. Tôi bảo:
- Một ca đẻ khó ở trong làng. Em bơi mủng đến đây thì bị chìm. Chẳng biết giờ họ ra sao mà trời sắp tối rồi.
- Đi! Khẩn trương kẻo không kịp – Giọng của đại úy át cả tiếng mưa rơi, rõ ràng, dứt khoát.
Xuồng nhằm hướng làng lao nhanh.
Mọi cảm xúc, suy nghĩ cứ ào ạt đến với tôi. Mừng vui và biết ơn. May mắn và bất hạnh. Thoáng chốc nghĩ lại chuyện chìm mủng vừa xong, lại ớn lạnh xương sống. Không biết đồng đội có nghĩ như tôi không mà cứ lặng lẽ đội mưa, thay nhau cầm lái cho con xuồng lao về phía làng đang trong mù mịt mưa. Tôi cứ mang mang nghĩ cho đến khi cái xuồng cao tốc lao phải một chóp mái nhà tranh đang trôi, tôi mới giật mình. Đàn gà ướt lướt thướt run rẩy bị ngã dúi dụi rồi rơi tuột xuống nước, kêu quác yếu đuối. Chàng lính trẻ lái xuồng loay hoay gỡ rơm dạ quấn vào chân vịt. Tôi giơ tay muốn vớt mấy con gà xấu số lên xuồng, nhưng đại úy ngăn lại, bảo đi kẻo không kịp. Cứu người mới là mệnh lệnh hàng đầu.
Tôi lại thấy cái mủng và người đàn ông lúc trước từ chối giúp tôi, đang bơi gấp gáp trong màn mưa giăng giăng. Tôi nhìn thấy cả con gà chết và con ngan còn sống ngỏng cổ lơ láo nhìn. Quả thực, tự nhiên lúc ấy tôi muốn xuồng lao qua trước mặt anh ta. Ga to, sục chân vịt cho sóng to lên để cho mủng anh ta chìm thì dứt khoát không, mà tôi muốn cho anh ta nhìn thấy tôi được người khác cứu, tôi đang sống như thế nào. Nhưng, tôi đã không làm như vậy, ở phía trước đang có nhiều việc cần hơn. Đã gần tới nơi rồi. Con xuồng vẫn rẽ nước cuồn cuộn.
Trời đã sâm sẩm tối.
Làng xóm chìm trong lũ lụt. Nhà thấp nước đã chấm mái tranh, nhà ngói cao nước cũng sắp ngập hết cửa sổ. Một vài cái mái bằng có nhiều người đang đứng, ngồi lố nhố trên sân thượng. Chẳng biết người ta đã kịp đưa một con trâu lên sân thượng bằng cách nào, mà nó đứng rét run và đập móng lộc cộc. Nước rút thì đưa con trâu xuống bằng cách nào nhỉ?
Trời không có mắt, cứ mưa lũ hoài. Một vài cái mủng đen di động xa xa trên mặt nước. Thỉnh thoảng lại một đống rạ, lừ lừ trôi đi. Có đống rơm, chó, mèo nhảy lên đó ngồi chịu chung số phận với cái vật cưu mang chở chúng. Thỉnh thoảng đèn bão lập loè, ánh đèn pin nhấp nháy, loang loáng trên nóc nhà, sân thượng trong màn mưa giăng giăng. Còn ai đang kẹt trong nhà nữa? Trời đã tối, nước vẫn dâng cao, biết đâu mà lần. Xuồng giảm tốc độ, lách trên mặt nước theo các ngõ nhỏ. Đi lòng vòng rồi xuồng táp vào trụ sở ủy ban xã. Nước cũng đã ngập sâu đến lưng tầng một, những người chạy lụt khoác nilông đã ngồi đầy trên sân thượng. Anh xã đội trưởng nhảy luôn xuống xuồng:
- Quay xuồng đi các đồng chí. Vợ chồng nhà cu Nhắng ở gần đây thôi.
- Không khéo đã đẻ tọt xuống nước rồi. Nhanh lên - Có tiếng người ở sân thượng nói chõ xuống.
Xuồng cao tốc lại lao đi.
Một cái đầu đàn bà thò lên chỗ dỡ ngói kêu, rồi lại thụt xuống. Có tiếng ngói rơi, lăn lộc cộc trên mái.
- Chị nhà đã đẻ chưa? - Tôi hỏi ngay.
- Đang thò ra thụt vào rồi.
Tiểu đoàn phó bảo:
- Neo xuồng chắc vào. Phá mái ngói nhanh lên.
- ...
Tôi bấm đèn pin. Trời đất ơi! Một người đàn bà ngồi ở xà nhà. Còn người đàn bà đang đẻ nằm trên cái gác xép để đồ. Hình như cái gác xép cũ, gỗ đã mục nên người đàn bà kia không dám ngồi cùng. Chị ta ngồi ở xà ngang nhà chìa hai tay sang đỡ. Chênh vênh. Một tầm với mà có cảm giác như họ xa xôi quá. Đứa bé đã thò cái chỏm đầu ra.
- Mẹ khỉ. Cu Nhắng đâu mà để vợ con thế này? - Anh xã đội trưởng hỏi.
Người đàn bà đẻ sụt sịt. Người đàn bà kia bảo:
- Nhà nó... bơi mủng đi... từ sáng. Chả biết có làm sao không?
- Thôi đừng khóc nữa. Lo cái thân cô và đứa bé đã.
Chúng tôi đành phải phá tường, táp xuồng vào gác xép. Lựa thế đỡ, chúng tôi khiêng cả người mẹ và đứa bé đang thò ra. Một con người sắp chào đời mong manh, bấy dậy đang bị lũ lụt, gió mưa đón ở ngoài đời. Người đàn bà kia, anh xã đội trưởng, chàng lính trẻ lái xuồng và tiểu đoàn phó, bốn người cầm bốn góc tấm nilông che, để cho tôi làm nốt phận sự của bà đỡ.
Khi cái xuồng cao tốc đã quay đầu chuẩn bị lao khỏi cái nhà bị phá tường, dỡ ngói thì có một cái mủng táp vào mạn. Có tiếng la hốt hoảng:
- Trời ơi! Vợ tôi...
- Mẹ thằng cu Nhắng. Mày xéo đi đâu. Có phải lại dò đi ăn trộm vặt không? Quen cái nết đánh chết không chừa. Cả làng cả tổng đi chống lụt, còn mày...
- Tui... tui...
- Thôi lên xuồng đi. Còn tui tui cái gì nữa. - Tiểu đoàn phó giục giã.
Người đàn bà đang đẻ bảo với tôi, giọng chị ta nghẹn ngào, van vỉ:
- Chồng tui đó. Ảnh bảo đi kiếm con gà, con vịt chết trôi bồi dưỡng cho tui. Zậy mà đi từ sáng. Tui cứ tưởng...
- Thôi, tập trung vào đẻ đái. Thương chồng quá lắm!
Nói rồi, tôi kéo khẽ tấm ni lông nhìn ra. Trời ơi! Trong ánh đàn pin loang loáng là người đàn ông gầy cao lênh khênh và cái mủng có mấy con gà chết với buồng chuối xanh và con ngan vẫn đang ngỏng cổ lên nhìn lơ láo.
Anh ta lập bập trèo lên xuồng rồi sà đến sát bên vợ. Người đàn bà lại nhắm nghiền mắt dồn hết sức cho cuộc sinh nở trong lòng xuồng. Ba cái đèn pin chĩa vào...
Xuồng tăng tốc trong đêm mưa lũ.
Đứa bé ra đời ngay trong lòng xuồng trên đường chạy về nơi trú nạn. Mẹ tròn con vuông. Đến khi có tiếng khóc “oe... oe...” của đứa bé thì tất cả mọi người đều thở phào. Còn người đàn ông thì thốt lên một tiếng: “Con ơi”. Tiếng anh ta lúc ấy mới da diết làm sao. Không biết có phải vì lạnh, hay vì một cái gì nữa mà đứa bé khóc quá trời. Tiếng khóc như xé vải, như tiếng kêu xuyên vào màn đen dầy đặc của đêm mưa lũ.
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận